Phi dị tính là gì? 20 thuật ngữ về LGBTQ+ có thể bạn chưa biết

Bạn có biết phi dị tính là gì không? xu thế tính dục, thiên hướng tính có sự khác nhau thế nào. Cùng nhau tìm hiểu chi tiết về 20 thuật ngữ về LGBTQ+ để có cái nhìn mở hơn về vấn đề này!

Phi dị tính là gì?

Về mặt sinh vật học ngẫu nhiên thì con người được chia làm 2 nam nữ là đực và cái. Còn về mặt ý thức xúc cảm thì con người có rất nhiều thiên hướng tính.

ngày nay xã hội tăng trưởng con người được linh động hơn họ bộc lộ nhiều hơn những thiên hướng tính khác, tuy nhiên cũng nhận được sự kỳ thị của không ít người cổ hủ, tư duy không mở

phi di tinh la gi 2 1
Phi dị tính là gì?

Những quan hệ giữa nam và nữ được gọi là dị tính (quan hệ giữa 2 người khác nam nữ)

Phi dị tính hay còn gọi là đồng tính đây là mối quan hệ của 2 người cùng giới (đồng tính). Mối quan hệ này có thể trái về mặt ngẫu nhiên sinh vật học nhưng hoàn toàn thông thường về mặt ý thức xúc cảm xu thế thiên tính.

Xem thêm: Miss Charm là cuộc thi gì? Thể lệ cuộc thi thế nào?

Tìm hiểu 20 thuật ngữ về LGBTQ+ tìm hiểu

1. xu thế tính dục – sexual orientation: 

thỉnh thoảng được gọi là “thiên hướng tình dục” hay “thiên hướng tình dục”. Thuật ngữ được sử dụng để nói tới sự thu hút về mặt thèm muốn tình dục của con người.

+ Monosexual – đơn tính luyến ái: Chỉ những người chỉ bị hấp dẫn tình dục bởi một nam nữ (nam hoặc nữ). Người đơn tính luyến ái có thể coi mình là đồng tính luyến ái hoặc dị tính luyến ái.

+ Heterosexual – dị tính, còn được gọi là straight: Bị thu hút bởi người khác giới.

+ Homosexual – đồng tính, còn được gọi là gay: Bị thu hút bởi người cùng giới.

+ Polysexual – đa tính luyến ái: chỉ những người bị hấp dẫn tình dục bởi hơn một nam nữ [giới tính ở đây được hiểu là bản dạng giới (gender identify), chứ không phải giới tính sinh học (biological gender)]. Khái niệm này khác với khái niệm pansexual.

+ Bisexual – song tính, còn được gọi tắt là bi: Là người có hứng thú với hai nam nữ [giới tính ở đây thường là giới tính sinh học (biological gender) chứ ít khi là bản dạng giới (gender identify)].

+ Pansexual – toàn tính, hay còn gọi là pan: Bị thu hút bởi tất cả nam nữ [giới tính ở đây được hiểu là bản dạng giới (gender identify), chứ không phải giới tính sinh học (biological gender)]. Chỉ cần họ thích là được, nam nữ chả quan trọng.

+ Asexual – vô tính, hay còn gọi là ace: Là người không có hứng thú về mặt thể xác với người khác. Nói cách thô tục hơn, họ không nứng với người khác được.

+ Graysexual hoặc gray asexual: Giống như ace, chỉ là họ thỉnh thoảng vẫn làm chuyện đó với người khác, tuy ít.

+ Demisexual – á tính: Là người không có hứng thú về mặt thể xác với người khác, nhưng nếu như họ tìm được người có sự liên kết tình cảm, ý thức với mình thì họ sẽ có thèm muốn với người đó.

+ Androsexual: Bị thu hút bởi sự nam tính (có thể được thể hiện cả ở mọi loại nam nữ)

+Gynosexual: Bị thu hút bởi sự nữ tính (có thể được thể hiện mọi loại nam nữ)

+ Questioning: Những người không rõ hoặc đang trong quá trình tìm hiểu xu thế tính dục của mình.

+ Bicurious: Những người tò mò muốn tìm hiểu khám phá xem liệu mình có phải bisexual hay không.

phi di tinh la gi 4
Phi dị tính là gì? 20 thuật ngữ về LGBTQ+ có thể bạn chưa biết

2. xu thế xúc cảm – romance orientation: 

Hay còn gọi là “thiên hướng lãng mạn”. Là thuật ngữ sử dụng để chỉ sự hấp dẫn về mặt tình cảm của con người mà không liên quan tới mặt tình dục. xu thế tính dục và xu thế xúc cảm của một người có thể giống hoặc khác nhau.

+ Heteroromantic: Có sự thu hút về mặt tình cảm đối với người khác giới.

+ Homoromantic: Có sự thu hút về mặt tình cảm đối với người đồng giới.

+ Biromantic: Có sự thu hút về mặt tình cảm đối với người của hai giới.

+ Panromantic: Có sự thu hút về mặt tình cảm đối với tất cả những nam nữ.

phi di tinh la gi 3 1
Panromantic

+ Aromantic: Không có xúc cảm với bất cứ người nào.

+ Grayromantic hoặc gray aromantic: Thuật ngữ khái quát cho những người nằm giữa việc có và không có tình cảm với bất cứ người nào.

+ Polyromantic: Có sự thu hút về mặt tình cảm với người hơn hai giới nhưng không phải tất cả nam nữ.

+ Androromantic: Có sự thu hút về mặt tình cảm với sự nam tính.

+ Gynoromantic: Có sự thu hút về mặt tình cảm với sự nữ tính.

+ Antiromantic: Một người không quan tâm tới sự lãng mạn nào cả. Không có muốn được ở bất kỳ mối quan hệ lãng mạn nào.

+ Demiromantic: Có sự thu hút về mặt tình cảm sau khi liên kết xúc cảm (liên kết này không nhất thiết phải lãng mạn) được hình thành.

+ Recipromantic: Có sự thu hút về mặt tình cảm chỉ sau khi người khác thể hiện tình cảm với mình trước.

+ Quoiromantic – wtfromantic – platoniromantic: Không thể phân biệt được sự khác biệt giữa tình cảm lãng mạn và tinh khiết, hoặc không thể xác định thu hút thiên về lãng mạn, vì vậy không biết họ đã trải nghiệm nó hay không.

+ Requiesromantic: Ít hoặc không có sự thu hút lãng mạn do kiệt sức về ý thức hay xúc cảm, có thể do triết lý xấu về tình cảm trong quá khứ.

+ Akoiromantic – lithromantic hoặc apromantic: Sự thu hút về mặt tình cảm bị mất dần hoặc biến mất khi nó được đáp lại.

+ Idemromantic: vừa có những cảm giác lãng mạn và phi lãng mạn

3. nam nữ sinh vật học – biological gender: 

Theo sinh vật học, chỉ có đúng hai loại nam nữ duy nhất tồn tại là nam nữ nam và nam nữ nữ.

Tuy nhiên có một số người do gen gặp vấn đề nên khi sinh ra có cả phòng ban sinh dục của nam và nữ. tuy vậy một trong hai phòng ban đó sẽ yếu hơn phòng ban còn lại và họ thường sẽ được chưng sĩ tư vấn phẫu thuật bỏ phòng ban yếu hơn đi. Những người đó gọi là “intersex”.

4. Bản dạng giới – nhận thức nam nữ – gender identify: 

Là sự tự xác định nam nữ của một tư nhân dựa trên trải nghiệm và cảm giác của người đó. Nhận thức nam nữ không nhất thiết dựa trên nam nữ sinh vật học hoặc nam nữ được người khác cảm nhận và cũng không phải là thiên hướng tình dục.

nếu như về mặt sinh vật học chỉ có 2 nam nữ duy nhất, thì trái lại, bản dạng giới lại có rất nhiều loại khác nhau:

+ Cisgender: Một thuật ngữ được sử dụng để mô tả những người có bản dạng giới giống với nam nữ mà họ được chỉ định khi sinh ra.

+ Transgender: Một thuật ngữ được sử dụng để mô tả những người có bản dạng giới khác với nam nữ mà họ được chỉ định khi sinh ra.

      *Transsexual: Cách gọi một Transgender sau khi đã làm phẫu thuật chỉnh hình.

      *Transmale – người chuyển giới nam: Có nam nữ sinh vật học nữ nhưng bản dạng giới là nam. Thích nữ giới.

      *Transfemale – người chuyển giới nữ: Có nam nữ sinh vật học nam nhưng bản dạng giới là nữ. Thích nam giới.

      *Transgay: Có nam nữ sinh vật học nữ nhưng bản dạng giới là nam. Nhưng họ vẫn thích nam giới.

      *Transles: Có nam nữ sinh vật học nam nhưng bản dạng giới là nữ. Nhưng họ vẫn thích nữ giới.

+ Non-binary: Những người ở giữa, không hoàn toàn là nam hoặc nữ. thỉnh thoảng được thay bằng Genderqueer.

+ Genderfluid: Chuyển qua lại giữa hai nam nữ nam và nữ hoặc đang dao động không rõ mình ở đâu.

+ Agender – neutrois – người vô giới: Một thuật ngữ chỉ những người không nhận dạng giới nào hoặc vô dạng giới.

+ Bigender: Một thuật ngữ chỉ những người có hai nam nữ (thường là nam nữ nam và nam nữ nữ). Họ có thể là cả hai giới cùng lúc và có lúc thì chuyển qua lại.

+ Polygender – multigender: Một thuật ngữ chỉ những người có rất nhiều hơn một nam nữ.

+ Gender Apathetic: Thuật ngữ chỉ những người không quan tâm cũng như không xác nhận mình thuộc bất cứ nam nữ nào. Họ cảm thấy thoải mái với bất cứ khái niệm và đại từ nhân xưng nào mà người khác sử dụng để gọi họ và không có vấn đề gì lớn với nam nữ sinh vật học của mình.

+ Intergender: Một thuật ngữ chỉ những người mà nam nữ nằm đâu đó giữa nam và nữ.

+ Demigender: Một thuật ngữ để chỉ những người cảm thấy một phần họ có nam nữ và một hoặc nhiều phần khác họ vô nam nữ.

+ Grey gender: Một thuật ngữ chỉ những người mà bản dạng giới họ cảm nhận được không chắc chắn.

+ Novigender: Thuật ngữ sử dụng để chỉ những người có nam nữ vô cùng phức tạp và không thể diễn tả chỉ bằng một khái niệm.

5. AFAB và AMAB

+ AFAB – assigned female at birth: Được chỉ định là nữ khi sinh ra (không liên quan tới bản dạng giới)

+ AMAB – assigned male at birth: Được chỉ định là nam khi sinh ra (không liên quan tới bản dạng giới)

6. Queer: 

Một tiếng lóng chỉ cộng đồng LGBTQ+. Trong quá khứ mang ý nghĩa tiêu cực, hiện giờ được rất nhiều người sử dụng với ý nghĩa tích cực.

7. Trừ khi bạn là intersex, còn không thì không có “nam nữ thứ ba”. Gay, les, bi, pan,…v.v là xu thế tính dục hoặc xu thế tình cảm, chứ không phải nam nữ.

8. xu thế tính dục và xu thế xúc cảm có thể giống hoặc khác nhau, do vậy những người vô tính vẫn có thể có tình cảm với người khác, những người đồng tính có thể thích những người khác giới, những người dị tính có thể thích những người đồng giới, nhưng họ hoàn toàn không có thèm muốn tình dục với những đối tượng đó. Do vậy không nên nhầm lẫn giữa homoromantic asexual (đồng ái vô tính) với homosexual (đồng tính), biromantic homosexual (song ái đồng tính) với bisexual (song tính).

phi di tinh la gi 1 1
bisexual (song tính).

9. Người vô tính chỉ không có thèm muốn tình dục với người khác, không phải tất cả đều lãnh cảm với tình dục. Một phần trong số họ vẫn có thể cảm thấy thèm muốn và vẫn có thể thủ dâm. Một phần khác hầu như không dính tới những hoạt động tình dục.

10. những mối quan hệ yêu đương đồng giới có từ rất lâu đời, không phải tới tận bây giờ mới có. Một trong những chứng tích về những mối quan hệ đồng giới sớm nhất được tìm thấy trong lăng tẩm của Nyankhkhnum và Khnumhotep thuộc thời kỳ Vương Quốc thứ 5 (2494 – 2345 TCN) dưới thời Pharaoh Nyuserre

11. Khoa học đã chứng minh được sau những nghiên cứu (link dưới), là gene không hề có tác động tới xu thế tính dục. Tức là, nếu như một cặp đồng giới đi thụ tinh nhân tạo để có con thì con họ sẽ không bị xu thế tính dục của cha mẹ tác động.

12. Con người không phải loài duy nhất có xu thế đồng tính.

13. Khái niệm nhận thức nam nữ cũng khác với khái niệm thể hiện nam nữ. Không phải tất cả những người có sự xác định giới khác với nam nữ lúc sinh ra thì đều thể hiện nam nữ đó ra bên ngoài (ví dụ là transmale nhưng vẫn mặc đồ nữ để tóc dài trang điểm) bởi lý do xã hội hay những quy tắc xung quanh. Cũng như thế, một người thể hiện nam nữ khác so với nam nữ sinh vật học của họ (ví dụ nam nhưng thích trang điểm, mặc đồ nữ tính, mặc váy) thì không chắc đã là người chuyển giới. Có thể đó là thị hiếu thời trang tư nhân của họ.

14. Transgender có thể hoặc không phẫu thuật chuyển giới. Họ có thể giữ nguyên nam nữ sinh vật học của mình vì lí do nào đó, nhưng chỉ cần họ vẫn cảm thấy mình thuộc nam nữ kia thì họ vẫn là trans.

Cũng tương tự, trans có thể ăn mặc theo bản dạng giới của họ hoặc là không. có rất nhiều bạn transmale thích mặc đồ nữ và cũng có rất nhiều bạn transfemale thích mặc đồ nam. Đó là vấn đề thị hiếu, về thể hiện giới, không phải vấn đề về nhận thức giới.

15. Queer có thể đang trong một mối quan hệ đồng tính, nhưng điều đó không tức là họ muốn chuyển giới. vì vậy, nhiều người sẽ cảm thấy khó chịu khi mình là nam/nữ nhưng lại bị gọi bằng những danh từ nữ tính hóa/nam tính hóa.

nếu như có quen biết, thì có nhẽ tốt nhất là nên xem thử cảm giác của họ thế nào trước khi gọi một bạn nam là con/chị hoặc một đại từ hướng nữ nào và một bạn nữ là thằng/anh hoặc một đại từ hướng nam nào. Cũng có rất nhiều bạn thì thoải mái với việc xưng hô như thế, nhưng không phải người nào cũng vậy.

16. Hai người đồng tính nữ còn được gọi là lesbian/les (với 1 chữ “s”), tuy nhiên họ vẫn được tính là gay và từ gay tất nhiên vẫn có thể sử dụng để chỉ những mối quan hệ đồng tính nữ.

17. Từ “bê đê” có gốc tiếng Pháp là “pédérastie” hoặc “pédé”, sử dụng để chỉ hành vi quan hệ tình dục với trẻ em (hay còn gọi là ấu dâm). Sau này thì người VN hoặc do hiểu sai ý của từ, hoặc do cố tình mà biến từ này thành tiếng lóng mang ý tiêu cực chỉ cộng đồng LGBTQ+ (chủ yếu là chỉ người đồng tính và người chuyển giới)

18. Nghiên cứu khoa học cũng mang ra kết luận đồng tính là hành vi ngẫu nhiên từ khi được sinh ra của con người. Thế nên đồng tính không phải bệnh tâm lý, càng không phải là bệnh truyền nhiễm. Do vậy tiếp xúc với người trong cộng đồng LGBTQ+ không “lây” người đó thành gay.

Đại đầy đủ những nhà khoa học, tâm lý học ngày nay đều đồng ý đồng tính không phải là một căn bệnh tâm lý. APA (American Psychological Association) – tổ chức thần kinh học Mỹ và WHO (World Health Organization) – tổ chức y tế toàn cầu đã rút đồng tính ra khỏi danh sách bệnh tâm lý từ năm 1973 và 1990.

Tạm kết

Trên đây là câu trả lời cho phi dị tính là gì cũng như những thông tin giảng giải, tìm hiểu về những thuật ngữ LGBTQ+ mà rất nhiều người nhầm lẫn, không phân biệt được. Hy vọng bài viết trên đã giúp ích được cho bạn có thêm nhiều thông tin tri thức về xu thế tính dục tránh có những kỳ thị ác cảm đối với cộng đồng LGBT.

About tcspmgnthn